Lịch sử 45 năm phát triển ngành Dầu khí Việt Nam (từ ngày 3-9-1975 thành lập Tổng cục Dầu mỏ và Khí đốt) đã chứng minh: Phát huy nội lực, ứng dụng sáng tạo những giải pháp về khoa học công nghệ (KHCN) tiên tiến, từ số “0” người dầu khí đã biến thành “có thể” và từ “có thể” thành “có thực”, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển ngành công nghiệp dầu khí.
Giàn khai thác dầu khí tại mỏ Bạch Hổ |
Đỉnh cao về hiệu ứng KHCN cần ghi nhận đầu tiên sau 13 năm thành lập Tổng cục Dầu mỏ và Khí đốt là sự phát hiện tầng dầu phi truyền thống, chưa có tiền lệ trong khoa học dầu khí và xây dựng phương pháp luận, hệ phương pháp để khai thác hiệu quả tầng dầu đặc biệt - tầng dầu trong đá móng nứt nẻ ở mỏ Bạch Hổ với trữ lượng siêu cấp, riêng ở tầng móng trên 4 tỉ thùng và khai thác nhịp độ cao với sản lượng đỉnh trên 13 triệu tấn/năm. Tên mỏ Bạch Hổ và “tầng dầu trong đá móng granit nứt nẻ” đã đi vào các văn liệu dầu khí thế giới là một đóng góp quan trọng cho khoa học dầu khí, có tính lan tỏa để phát hiện thêm nhiều mỏ trữ lượng cao khác ở bể Cửu Long. Thành quả này còn mang ý nghĩa kinh tế được ghi nhận như một động lực tăng trưởng nền kinh tế khởi đầu “thời kỳ đổi mới” của đất nước.
Sự hình thành Khu công nghiệp Khí - Điện - Đạm Cà Mau để đáp ứng nhu cầu về điện tăng nhanh đòi hỏi sớm khai thác mỏ khí lớn Lan Tây ngoài khơi thềm lục địa Việt Nam đưa vào bờ. Đường ống dẫn khí Nam Côn Sơn có đường kính 26 inch (660mm), dài 370km dẫn khí ở trạng thái 2 pha vào bờ, công suất 7 tỉ m3 khí/năm được xem là một trong những công trình lớn bậc nhất thế giới thế kỷ XX, đòi hỏi những giải pháp KHCN bảo đảm tính ổn định, an toàn cao trong vận hành. Đường ống dẫn khí Nam Côn Sơn, cũng như công trình thu gom toàn bộ khí đồng hành từ bể Cửu Long đưa vào bờ, được vận hành an toàn suốt 20 năm qua đánh dấu sự trưởng thành của KHCN dầu khí Việt Nam, đặt nền móng cho sự phát triển ngành công nghiệp khí, hóa dầu và điện, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng, lương thực, cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân từ những năm cuối thế kỷ XX đến nay.
Những thành tựu KHCN khác trong lĩnh vực cơ khí chế tạo và xây lắp các công trình biển, chinh phục vùng nước sâu trên 100m nước thềm lục địa Việt Nam cần ghi nhận là sự thành công trong thiết kế, xây lắp, hạ thủy an toàn đưa ra hoạt động ở vùng nước sâu, xa bờ 300-400km, như các dàn hỗ trợ khoan vùng biển sâu TAD, dàn khai thác và xử lý khí vùng nước sâu Biển Đông, khối chân đế dàn khai thác và xử lý dầu khí siêu trường, siêu trọng Sao Vàng - Đại Nguyệt, giàn khoan tự nâng trên 100m nước sâu Tam Đảo 5. Các công trình đều có chứng chỉ quốc tế, cơ sở để các doanh nghiệp dầu khí cạnh tranh quốc tế, vươn ra làm dịch vụ ở nước ngoài.
Giàn Tam Đảo 05 |
Xây dựng và phát triển ngành chế biến dầu khí Việt Nam cũng là đóng góp quan trọng về KHCN. Nhà máy Lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động vào năm 2010 đánh dấu khâu cuối cùng trong chu trình hoàn chỉnh ngành công nghiệp dầu khí từ khâu tìm kiếm, thăm dò, khai thác đến vận chuyển, chế biến và dịch vụ kỹ thuật, phân phối sản phẩm... thực hiện chương trình xây dựng ngành công nghiệp dầu khí hoàn chỉnh, đồng bộ theo tinh thần Nghị quyết 15 của Bộ Chính trị. Việc vận hành an toàn, với công suất cao, ổn định, tổ chức nhiều đợt bảo dưỡng tổng thể nhà máy an toàn, chất lượng, đánh dấu trình độ tiếp thu và phát triển ứng dụng công nghệ của lực lượng KHCN Việt Nam, tạo hiệu ứng chuỗi giá trị kết nối từ khâu lựa chọn phương án nguyên liệu dầu thô, giải pháp hợp lý hóa dây chuyền công nghệ, phương án sản phẩm tạo giá trị gia tăng cao thích ứng với nhu cầu thị trường...
Một hướng đi mang tính đột phá sáng tạo trong lĩnh vực cơ khí chính xác và ứng dụng công nghệ số hóa là công trình Hệ thống trạm đo carota tổng hợp xách tay TBM-02 và Bộ quy trình minh giải tài liệu địa vật lý LOGINTER 2.0 đang trình xin Giải thưởng Nhà nước về KHCN.
Nhiều công trình nhận giải thưởng khoa học và công nghệ dầu khí, nhiều sáng kiến sáng chế đã góp phần mang lại hiệu quả kinh tế cao. Theo thống kê, trong những năm vừa qua, toàn Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) đã có 1.482 sáng kiến cấp đơn vị trực thuộc làm lợi 5.426 triệu USD và 3.626 tỉ VNĐ; ở cấp Tập đoàn có 30 sáng kiến làm lợi 23,95 triệu USD và 2.532 tỉ VNĐ. Toàn bộ các sáng kiến cấp cơ sở đã được áp dụng vào thực tế sản xuất kinh doanh, mang lại số tiền làm lợi hơn 2.082 tỉ đồng trong năm đầu tiên áp dụng…
Đó là những kỳ tích về KHCN đánh dấu sự trưởng thành, phát huy nội lực và hiệu quả của sự tích lũy kiến thức, kinh nghiệm, minh chứng cho trí tuệ, bản lĩnh của tập thể những người lao động dầu khí.
Mặc dù đã đạt được nhiều thành công đáng khích lệ trong lĩnh vực KHCN sau 45 năm phát triển nhưng KHCN dầu khí cũng không thể tránh khỏi những hạn chế đã được nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra như: Năng suất lao động thiếu sức cạnh tranh; chỉ số thể hiện hiệu suất đầu tư ICOR còn cao; trình độ công nghệ chậm được đổi mới; nhiều công trình nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ chậm được ứng dụng vào thực tiễn...
Hoạt động sản xuất kinh doanh của Petrovietnam hiện phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do sự biến động khó dự báo của giá dầu thô tác động tiêu cực toàn diện, nhiều năm đến doanh thu, lợi nhuận và khó có thể sớm tìm được sự cân bằng; các mỏ dầu khí truyền thống sau thời gian dài khai thác đã suy giảm về trữ lượng và sản lượng, cần phải đầu tư tận khai thác và triển khai thăm dò khai thác các mỏ nhỏ, cận biên kinh tế, mở rộng ra vùng biển sâu, xa bờ của thềm lục địa với công nghệ hiện đại, đầu tư lớn, giá thành thăm dò và khai thác một tấn dầu khí ngày càng cao, rủi ro lớn; phải duy trì sự phát triển bền vững khi tiềm lực còn yếu, hiệu ứng sử dụng công nghệ mới chưa cao; bất ổn về an ninh, chính trị ở Biển Đông; sự bảo hộ nội địa gia tăng của các nước trong khu vực...
Nhà máy Đạm Cà Mau |
Để đáp ứng yêu cầu phát triển ổn định ngành công nghiệp dầu khí trước hiện trạng tài nguyên dầu và khí, trước sức ép tăng hiệu quả đầu tư, cạnh tranh hội nhập, trước sự biến động của kinh tế dầu khí, KHCN dầu khí cũng cần sự đổi mới, đặc biệt trong các lĩnh vực như: Tăng hiệu quả khai thác và sử dụng tài nguyên dầu khí; đổi mới công nghệ xử lý, chế biến dầu khí và sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao thỏa mãn đòi hỏi của thị trường về chất lượng, giá cả, giá trị sử dụng; xử lý, vận chuyển và phân phối khí, sử dụng hiệu quả nguồn khí thiên nhiên như nguồn năng lượng chiến lược trong nhiều thập niên tới; đổi mới công nghệ và chất lượng dịch vụ kỹ thuật - công nghệ cao có khả năng cạnh tranh quốc tế; cải tiến, chế tạo các sản phẩm chuyên dụng trong công nghiệp dầu khí, có khả năng tự lực trong cung ứng phần lớn thiết bị và phụ tùng thay thế tiêu chuẩn quốc tế; nghiên cứu chuyển dịch và phát triển nguồn năng lượng sạch theo hướng tận dụng năng lực của ngành và tài nguyên dầu khí hiện có, đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường, phù hợp xu thế CMCN 4.0.
Mục tiêu quan trọng tăng hiệu quả của KHCN là cần giảm thời gian phát triển từ ý tưởng KHCN sang sản xuất thành phẩm và giá thành cạnh tranh trong chuỗi giá trị, cải thiện chất lượng và tăng giá trị sáng tạo, tạo thị trường phân phối bền vững, tối đa hóa lợi ích cho người tiêu dùng. Song song với việc chú ý đến hiệu quả sử dụng công nghệ đang hoạt động, cần tăng hàm lượng đổi mới công nghệ, từng bước chuyển sang nghiên cứu phát triển công nghệ thông minh tạo sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn - có nghĩa chuyển từ R++ sang R&D rồi đến RD&P smart (research, development and smart production).
Trong lĩnh vực nghiên cứu và ứng dụng KHCN, chúng ta mới hạn chế ở nghiên cứu hoặc ứng dụng hiệu quả công nghệ bản quyền nước ngoài vào điều kiện đặc thù của Việt Nam, hoặc mới ở kết quả thực nghiệm, chưa tạo ra sản phẩm công nghiệp mới, sáng tạo ra công nghệ độc quyền mang thương hiệu Petrovietnam, tăng hàm lượng nội địa hóa với công nghệ và các sản phẩm do Petrovietnam sản xuất có chất lượng quốc tế. Vì thế, cần sự hỗ trợ từ cơ quan quản lý Nhà nước về cơ chế khuyến khích tạo sự liên thông, gắn kết giữa nghiên cứu khoa học - phát triển công nghệ - sản xuất thực nghiệm (dạng pilot) - người sử dụng. Cần nghiên cứu điều chỉnh hợp lý hơn cấu trúc hệ thống KHCN hiện nay trong Petrovietnam về mục tiêu, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động, quản lý, tạo sự liên thông, hiệu quả hơn trong sử dụng tích hợp các nguồn lực, phát triển công nghệ và sản xuất ra các sản phẩm có sức cạnh tranh về giá trị trí tuệ...