-------BẢN LĨNH VƯỢT QUA THỬ THÁCH--------
Đại hội đại biểu Đảng bộ Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam lần thứ III nhiệm kỳ 2020 - 2025 có nhiệm vụ kiểm điểm kết quả việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ II (Nghị quyết); quyết định phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp 5 năm tới của Đảng bộ. Đại hội được tiến hành theo phương châm: “Bản lĩnh - Trách nhiệm - Đoàn kết - Đổi mới - Hành động”, với chủ đề: “Xây dựng Đảng bộ vững mạnh toàn diện, phát triển Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (Tập đoàn) giữ vai trò nòng cốt thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển ngành Dầu khí Việt Nam”.
Trong 5 qua, tình hình thế giới và khu vực chuyển biến nhanh, phức tạp và khó dự đoán; xu hướng đề cao lợi ích quốc gia, dân tộc, cạnh tranh chiến lược địa chính trị, địa kinh tế giữa các nước lớn diễn ra quyết liệt, tác động sâu sắc đến mọi mặt chính trị, kinh tế, xã hội, sắc tộc, tôn giáo trên toàn cầu, trong đó có sự khủng hoảng suy giảm của thị trường dầu mỏ. Cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 cùng với xu hướng năng lượng xanh, năng lượng tái tạo, năng lượng mới tác động mạnh mẽ đến các ngành, lĩnh vực trên thế giới, trong đó có ngành Dầu khí. Ở trong nước, tinh thần đại đoàn kết dân tộc, niềm tin của nhân dân với Đảng ngày càng củng cố, uy tín quốc tế của đất nước được nâng cao. Trong nhiệm kỳ khóa XII, Đảng ta đặc biệt quan tâm tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Chính phủ quyết liệt chỉ đạo các giải pháp duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, trong đó đáng chú ý là vấn đề mở cửa thị trường dịch vụ và cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, cải cách hành chính, cải cách thể chế.
Giai đoạn 2015 - 2020, Tập đoàn phải đối mặt với những khó khăn, thách thức rất lớn. Về khách quan: Giá dầu thô liên tiếp giảm sâu và giữ ở mức thấp, tình hình Biển Đông phức tạp, cạnh tranh thương mại, biến đổi khí hậu, khủng hoảng do dịch bệnh Covid - 19 đã tác động trực tiếp đến mọi mặt hoạt động của Tập đoàn. Công tác quản lý Nhà nước về Dầu khí, các chính sách phục vụ phát triển bền vững Tập đoàn còn bất cập, thiếu thống nhất, Nghị quyết 41-NQ/TW của Bộ Chính trị chậm được thể chế hóa, chưa tạo ra một hệ sinh thái kinh doanh đồng bộ, xuyên suốt cả chuỗi giá trị. Các đơn vị dịch vụ, trung nguồn và hạ nguồn chịu chung tác động khó khăn từ khâu thượng nguồn; thị trường, việc làm, thu nhập của người lao động trở nên thách thức. Về chủ quan: Tập đoàn đã bộc lộ nhiều hạn chế về chất lượng nguồn lực, năng lực cạnh tranh, trình độ quản trị. Vừa qua, Tập đoàn phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo khắc phục hạn chế, khuyết điểm trong giai đoạn trước, hệ lụy không tránh khỏi, đã tác động đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, tư tưởng người lao động, uy tín và thương hiệu của Tập đoàn.
Mặc dù vậy, Tập đoàn đã luôn nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự hỗ trợ tích cực của các bộ/ngành/địa phương. Ngay sau Đại hội II, Đảng ủy Tập đoàn đã khẩn trương ban hành các quy chế làm việc, các nghị quyết, chỉ thị, kết luận cụ thể hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; thông qua tổ chức đảng và đảng viên là lãnh đạo các cấp để nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng. Hằng năm, Đảng ủy Tập đoàn đã ban hành Nghị quyết lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ công tác, điểm mới trong nhiệm kỳ, Ban Thường vụ Đảng ủy Tập đoàn đã thảo luận, lựa chọn ưu tiên để giao nhiệm vụ cho cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy/đơn vị trực thuộc Đảng ủy Tập đoàn; Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc Tập đoàn đã ban hành Chương trình hành động, kế hoạch cụ thể hóa, triển khai thực hiện.
(Ảnh Tập thể BCH Đảng bộ Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam khóa II)
Đóng góp lớn cho nền kinh tế đất nước
Công tác điều tra cơ bản và tìm kiếm thăm dò dầu khí ở trong nước đã được Tập đoàn triển khai theo chương trình công tác và ngân sách được phê duyệt, đảm bảo hiệu quả, tối ưu dòng tiền phù hợp với từng loại hình dự án tìm kiếm, thăm dò, phát triển khai thác. Hoàn thành công tác thu nổ địa chấn 2D thuộc dự án PVN-15 và thu nổ địa chấn 3D theo chương trình công tác hằng năm của các lô hợp đồng dầu khí. Khai thác hiệu quả các mỏ hiện có; phát triển và đưa các mỏ dầu khí vào khai thác hợp lý. Triển khai thực hiện trích lập Quỹ thu dọn các mỏ, bảo đảm hoàn nguyên môi trường sinh thái khi các mỏ đã hết khả năng khai thác. Trong 05 năm qua, Tập đoàn hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch khai thác dầu khí hằng năm Chính phủ giao (kể cả giao bổ sung tăng thêm như năm 2017): Tổng sản lượng khai thác dầu khí ước đạt 150,3 triệu tấn quy dầu, vượt 0,2% chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra. Công tác tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí còn góp phần quan trọng trong việc khẳng định chủ quyền quốc gia trên biển.
Hạ tầng ngành công nghiệp khí dần được hoàn thiện, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Hệ thống các đường ống dẫn khí được vận hành an toàn, cung cấp khí ổn định cho các hộ tiêu thụ công nghiệp và tiêu dùng dân sinh. Nguồn khí được cung cấp để: sản xuất điện chiếm 31-33% sản lượng điện toàn quốc; sản xuất đạm trên 1,6 triệu tấn/năm, chiếm 70-75% nhu cầu nội địa. Triển khai việc nhập khẩu và phân phối khí LPG và CNG cho hộ công nghiệp và các hộ tiêu thụ dân sinh trong cả nước. Áp dụng các chính sách thúc đẩy sử dụng khí, đa dạng hóa hình thức đầu tư xây dựng nhà máy điện khí, khuyến khích nghiên cứu sử dụng các công nghệ sạch, tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường... Huy động được nhiều thành phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh khí, đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng công nghiệp khí.
Các dự án trong lĩnh vực chế biến dầu khí được tập trung triển khai; sản xuất xăng dầu ước đạt 52,74 triệu tấn, vượt 1,4% chỉ tiêu; Sản xuất đạm ước đạt 9,72 triệu tấn, vượt 23% chỉ tiêu Nghị quyết đề ra, đáp ứng 70 – 75% nhu cầu đạm trên thị trường và bước đầu đã xuất khẩu. Các nhà máy đạm, lọc - hóa dầu được vận hành an toàn, công tác bảo trì, sửa chữa thường xuyên, định kỳ được tuân thủ đúng yêu cầu của nhà chế tạo và theo kế hoạch.
Tập đoàn tăng cường công tác quản lý, vận hành, bảo trì, sửa chữa đối với các dự án điện đã hoàn thành, bảo đảm hiệu quả đầu tư. Sản xuất điện ước đạt 128,84 tỷ kWh, đạt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra, chiếm khoảng 10-12% tổng sản lượng điện thương phẩm toàn quốc, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
Đầu nhiệm kỳ, lĩnh vực dịch vụ dầu khí của Tập đoàn gặp nhiều khó khăn do giá dịch vụ và khối lượng công việc suy giảm theo diễn biến của giá dầu; các nhà thầu dầu khí dừng/giãn, cắt giảm khối lượng công việc và giá dịch vụ, công tác phát triển dịch vụ ra nước ngoài gặp nhiều khó khăn do sự cạnh tranh khốc liệt… Hai năm 2018 - 2019, giá dầu phục hồi đã giúp lĩnh vực dịch vụ dầu khí có chuyển biến tương đối thuận lợi, doanh thu dịch vụ dầu khí 5 năm 2016 - 2020 đạt 895 nghìn tỷ đồng; Nộp ngân sách Nhà nước từ lĩnh vực dịch vụ 5 năm đạt 55,1 nghìn tỷ đồng. Tăng trưởng dịch vụ 9%, đạt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra. Hầu hết các đơn vị dịch vụ có đủ năng lực để thực hiện các yêu cầu dịch vụ dầu khí chất lượng cao, tham gia thực hiện công trình quốc phòng trên biển.
Tập đoàn đã tích cực tham gia phát triển hợp lý hệ thống phân phối xăng dầu nhằm góp phần bảo đảm lưu thông và bình ổn thị trường tiêu thụ; tăng cường các giải pháp gia tăng dự trữ về dầu thô và sản phẩm xăng dầu để góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Hiện tại thị phần phân phối xăng dầu trong nước của Tập đoàn (thông qua PVOil) chiếm trên 14%, với sản lượng trung bình khoảng 3,0-3,07 triệu tấn/năm đứng thứ hai (sau Petrolimex).
Từ nỗ lực trong sản xuất – kinh doanh, kết quả tổng doanh thu toàn Tập đoàn ước đạt 3.514,6 nghìn tỷ đồng, vượt 6,5% chỉ tiêu, lợi nhuận sau thuế hợp nhất Tập đoàn ước đạt 244,4 nghìn tỷ đồng, vượt 6,3% chỉ tiêu Nghị quyết đề ra.
3 giải pháp đột phá mang lại kết quả
Xuất phát từ nhu cầu của Tập đoàn đồng thời thực hiện các chủ trương lớn của Đảng, Đảng ủy Tập đoàn đã chỉ đạo công tác tái cơ cấu bộ máy điều hành, hoàn thiện cơ cấu tổ chức, nhân sự và tinh gọn, bước đầu đã nâng cao vai trò và hiệu quả điều hành. Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, áp dụng triệt để các tính năng phần mềm quản lý, xử lý công văn nội bộ trong Tập đoàn, giúp nâng cao trách nhiệm, tính chuyên nghiệp, kiểm soát được tiến độ trong xử lý công việc. Ban hành Bộ quy chế quản trị nội bộ tạo điều kiện cho các hoạt động được thông suốt, phù hợp với những thay đổi về kinh tế, pháp luật, xu hướng công nghệ và tạo tiền đề cho quản trị số trong tương lai. Tập đoàn đã tập trung triển khai thực hiện sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn giai đoạn 2017 - 2020 theo đúng tiến độ; thực hiện thành công thoái vốn tại 02 đơn vị, cổ phần hóa tại 03 đơn vị. Việc phân cấp, tăng cường tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị khuyến khích sự năng động của đơn vị cùng với cơ chế giám sát chặt chẽ thông qua người đại diện từng bước được thực hiện.
Từ đầu năm 2020, trước tác động kép của dịch bệnh Covid-19 và giá dầu giảm sâu, Tập đoàn đã chủ động theo phương châm “Quản trị biến động, tối ưu giá trị, đẩy mạnh tiêu thụ, nỗ lực vượt khó, nắm bắt cơ hội, an toàn về đích”, tổ chức thực hiện quyết liệt và đồng bộ gói giải pháp cấp bách để ứng phó với tác động kép của dịch bệnh Covid-19 và giá dầu giảm, trong đó tập trung vào 05 nhóm giải pháp tổng thể là: (1) Nhóm giải pháp về quản trị; (2) Nhóm giải pháp về tài chính; (3) Nhóm giải pháp về đầu tư; (4) Nhóm giải pháp về thị trường; (5) Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách; và chi tiết cụ thể hóa cho 05 lĩnh vực hoạt động của Tập đoàn, 03 lĩnh vực trọng tâm được xác định chịu ảnh hưởng trực tiếp và nặng nề nhất do tác động kép đó là: (1) Tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí; (2) Chế biến dầu khí và phân phối sản phẩm dầu khí; (3) Dịch vụ dầu khí. Sau thời gian quyết liệt triển khai đồng bộ, bước đầu Tập đoàn đã đạt được những kết quả khích lệ. Trong 6 tháng đầu năm 2020, lợi nhuận sau thuế hợp nhất của Tập đoàn đạt 13,5 nghìn tỷ đồng. Nếu không thực hiện hiệu quả 5 nhóm giải pháp quản trị thì Tập đoàn sẽ thua lỗ giống như nhiều công ty dầu khí khác trên thế giới.
Công tác đào tạo và phát triển nhân lực tập trung cho 5 lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính, đào tạo nâng cao năng lực quản lý cho lãnh đạo cấp cao, quản lý cấp trung và cán bộ nguồn; đào tạo bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn, nghiệp vụ. Bên cạnh đó, Tập đoàn đã xây dựng chương trình đào tạo khung cho khối kỹ thuật và tiếp tục xây dựng chương trình đào tạo khung cho cán bộ lãnh đạo/quản lý và khối nghiệp vụ phi kỹ thuật.
Tập đoàn đã đầu tư nghiên cứu đánh giá tiềm năng triển vọng dầu khí phục vụ cho công tác gia tăng trữ lượng, nghiên cứu chế tạo, nghiên cứu định hướng và đặc biệt là nghiên cứu ứng dụng để phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Ứng dụng khoa học – công nghệ, các thành tựu của Cách mạng Công nghiệp 4.0 được triển khai ở tất cả các lĩnh vực hoạt động của Tập đoàn. Khâu đầu đã ứng dụng các công nghệ mới trong xử lý và minh giải số liệu địa chấn, địa vật lý giếng khoan giúp nâng cao độ tin cậy và chính xác hóa các kết quả xử lý và phân tích; xây dựng mô hình địa chất, thiết kế mô hình mô phỏng khai thác, công nghệ khoan và hoàn thiện giếng giúp giảm thiểu rủi ro trong thi công khoan; trong quản lý và vận hành khai thác góp phần duy trì và gia tăng sản lượng khai thác, bảo đảm an toàn mỏ... Ở lĩnh vực khâu sau, điện và khí, ứng dụng các công nghệ mới của nước ngoài trong thiết kế, vận hành và duy trì hoạt động góp phần nâng cao hiệu quả của các nhà máy.
(Ảnh Tập thể Ban thường vụ Đảng ủy Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam khóa II)
Tổ chức Đảng đã giữ vai trò hạt nhân
Tổ chức cho toàn thể đảng viên học tập, quán triệt và triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng. Coi trọng việc nắm bắt tư tưởng, dư luận quần chúng lao động trong ngành và dư luận xã hội, nhất là những vấn đề chính trị thời sự, tình hình Biển Đông; tích cực tuyên truyền giữ vững chủ quyền quốc gia trên biển. Tuyên truyền, giải thích với cán bộ, đảng viên và người lao động, phản bác những luận điểm sai trái về vấn đề kinh tế - xã hội, lao động việc làm, chế độ, chính sách cũng như những vấn đề liên quan đến hoạt động của Tập đoàn. Chủ động cung cấp thông tin, tuyên truyền việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Tập đoàn và các đơn vị thành viên để dư luận hiểu đầy đủ, chính xác, đồng thời tạo sự đồng thuận, hỗ trợ, hợp tác của truyền thông và toàn xã hội. Việc thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW, Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI, XII); các quy định về chuẩn mực đạo đức, lối sống của đảng viên, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp, người đứng đầu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao là một trong những tiêu chí đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, đảng viên hằng năm. Triển khai Văn hóa Petrovietnam trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thực hiện an sinh xã hội cũng như trong thỏa ước lao động tập thể, gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; bảo vệ giá trị cốt lõi và thương hiệu Petrovietnam.
Đảng uỷ Tập đoàn đặc biệt quan tâm xây dựng hệ thống và nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức cơ sở đảng; củng cố, sắp xếp, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ và đoàn thể đồng bộ với quá trình tái cấu trúc doanh nghiệp. Hằng năm xếp loại tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh (từ năm 2018 đổi thành hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ) đạt 100% so với chỉ tiêu Đại hội. Hệ thống các văn bản về Công tác cán bộ được Ban Thường vụ Đảng ủy, Hội đồng thành viên ban hành đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, triển khai thực hiện trong toàn Tập đoàn; Tổng giám đốc Tập đoàn đã xây dựng hệ thống quản trị nhân sự theo năng lực. Tiến hành nhận xét, đánh giá cán bộ theo định kỳ và đánh giá trước khi quy hoạch, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động cán bộ. Thực hiện nghiêm túc kiểm điểm tự phê bình và phê bình làm tiền đề phân loại, đánh giá cán bộ và chỉ đạo xây dựng, bổ sung quy hoạch cán bộ các cấp trong Tập đoàn. Ban Thường vụ Đảng ủy Tập đoàn đã xây dựng kế hoạch, hướng dẫn, chỉ đạo cấp ủy đảng trực thuộc rà soát, bổ sung quy hoạch, thực hiện điều động và luân chuyển cán bộ, tạo điều kiện cho cán bộ trẻ có triển vọng, cán bộ diện quy hoạch được rèn luyện trong thực tiễn và tránh tình trạng khép kín trong công tác cán bộ. Công tác cơ sở đảng, đảng viên và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp ủy các cấp được cải tiến và nâng cao chất lượng. Các chi/đảng bộ trong toàn Tập đoàn thực hiện nghiêm túc chủ trương nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên và rà soát, sàng lọc, đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ, quản lý đảng viên có liên quan đến yếu tố nước ngoài, thực hiện nhiệm vụ của đảng viên ra nước ngoài, bảo mật, lưu trữ, bảo quản tài liệu bảo đảm đúng quy định.
Công tác kiểm tra, giám sát, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, thi hành kỷ luật đảng và phòng chống tham nhũng, lãng phí được thực hiện bảo đảm đúng phương hướng, phương châm, nguyên tắc, thủ tục, quy trình; tham mưu thực hiện tốt quy chế phối hợp trong công tác kiểm tra, giám sát và các nhiệm vụ khác do cấp ủy, ủy ban kiểm tra cấp trên giao; đã góp phần cảnh báo, ngăn ngừa tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Trong nhiệm kỳ đã nghiêm túc thực hiện quyết định kiểm tra, kết luận kiểm tra của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương và của Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương, chủ động rà soát, khắc phục các hạn chế, tồn tại liên quan đến nội dung kiểm tra.
Đảng ủy Tập đoàn đã quán triệt, triển khai, thực hiện nghiêm túc công tác Dân vận, làm tốt công tác an sinh xã hội trong nội bộ và nhất là những nơi có hoạt động Dầu khí. Chỉ đạo các đoàn thể phối hợp với lãnh đạo doanh nghiệp phát động các phong trào thi đua yêu nước, thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, tạo sự đồng thuận của người lao động trong công tác tái cơ cấu, cổ phần hóa, trong đẩy mạnh sáng kiến, sáng tạo, hoàn thành các chỉ tiêu sản xuất, kinh doanh. Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ các cấp trong Tập đoàn đã chỉ đạo các đoàn thể tích cực tham gia xây dựng và giám sát việc thực hiện các quy chế, quy định theo pháp luật và điều lệ của các tổ chức, giám sát việc thực hiện kế hoạch sản xuất, kinh doanh, các chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, thi đua khen thưởng; đóng góp ý kiến cho công tác cán bộ, xây dựng Văn hóa doanh nghiệp, chính sách với lao động trẻ, lao động nữ và người hưu trí… Việc tổ chức đối thoại được tổ chức đúng quy định, những vấn đề đưa ra đối thoại được giải quyết thỏa đáng.
Nhìn lại nhiệm kỳ 2015 – 2020 của Đảng bộ Tập đoàn cũng là trọn vẹn 5 năm thực hiện Nghị quyết 41-NQ/TW của Bộ Chính trị, là giai đoạn Tập đoàn phải đối diện với những khó khăn, thách thức lớn nhất trong lịch sử của ngành Dầu khí. Song với tinh thần cầu thị, thực sự bản lĩnh, đoàn kết, nỗ lực và ý chí quyết tâm, tập thể cán bộ, đảng viên, công nhân viên lao động Dầu khí đã phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức 08 nhóm chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội II Đảng bộ Tập đoàn đề ra. Tập đoàn tiếp tục có đóng góp lớn và giữ vai trò quan trọng đảm bảo cân đối ngân sách Nhà nước. Các sản phẩm chủ lực của Tập đoàn là dầu thô, xăng dầu, khí thiên nhiên, khí hóa lỏng, điện, đạm… với tỷ trọng lớn, góp phần rất quan trọng phát triển kinh tế - xã hội đất nước và đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Quan tâm phát triển hệ thống quản trị tiên tiến, đáp ứng các yêu cầu theo thông lệ quốc tế, minh bạch trong hoạt động. Bên cạnh phát triển kinh tế, Tập đoàn góp phần tham gia tích cực trong việc khẳng định, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển.
Tổ chức đảng các cấp trong toàn Đảng bộ đã giữ vai trò hạt nhân, lãnh đạo toàn diện, đặc biệt trong giai đoạn khủng hoảng. Phương thức lãnh đạo của Đảng ủy tiếp tục được đổi mới; chú trọng rà soát, khắc phục các khâu yếu kém trong công tác cán bộ, tạo chuyển biến tích cực và ngày càng đi vào nền nếp. Công tác xây dựng Đảng, đoàn thể trong Tập đoàn được củng cố theo hướng thiết thực, hiệu quả. Tổ chức bộ máy của doanh nghiệp được tái cơ cấu với quyết tâm chính trị cao. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được thực hiện toàn diện, đồng bộ, có hiệu lực, hiệu quả hơn../
1: Nhóm 8 chỉ tiêu đạt và vượt
2: Bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn
Một là, đối với Tập đoàn, 45 năm qua, cũng như 05 năm thực hiện Nghị quyết 41-NQ/TW đã chứng minh rằng, tầm nhìn chiến lược đúng đắn, đường lối, chủ trương, chính sách phù hợp với điều kiện thực tế trong nước và hoàn cảnh quốc tế là yếu tố quyết định để nắm bắt các cơ hội, phát huy nội lực, tăng cường hợp tác quốc tế, đẩy mạnh hoạt động dầu khí trong nước.
Hai là, Đảng bộ Tập đoàn phải nêu cao bản lĩnh, tính chiến đấu, ý thức chủ động, bình tĩnh, tự tin, giữ vai trò hạt nhân, tập hợp đoàn kết, giữ gìn ổn định, cân bằng, sẵn sàng đối diện thách thức, đương đầu với khủng hoảng.
Ba là, bảo đảm nguyên tắc: Đảng lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và thống nhất quản lý cán bộ trong doanh nghiệp. Tập thể lãnh đạo phải có trình độ chuyên môn, kỹ năng quản lý, có tinh thần đoàn kết, thống nhất, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm nhưng phải tuân thủ các quy định của pháp luật; không bao che, kiên quyết xử lý các cán bộ vi phạm pháp luật; chủ động, linh hoạt trong quản trị, điều hành vì mục tiêu phát triển bền vững. Nguồn nhân lực phải được đào tạo toàn diện, nhất là về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, quản lý, khoa học – công nghệ, tay nghề.
Bốn là, tập trung nguồn lực để đầu tư phát triển các lĩnh vực kinh doanh chính bao gồm: tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí, công nghiệp khí, chế biến dầu khí, điện và năng lượng tái tạo, dịch vụ dầu khí theo chỉ đạo của Chính phủ.
Năm là, Tập đoàn cần tiếp tục được tập trung tăng cường nguồn lực; có các chính sách đặc thù để phát triển bền vững; bên cạnh đó, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, bảo đảm để Tập đoàn phát triển đúng Chiến lược đã được Bộ Chính trị định hướng.